Cổ Học Tinh Hoa

Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc , Từ An Trần Lê Nhân

Ba Con Rận Kiện Nhau

Ba con rận hút máu một con lợn, tranh nhau ăn, đem nhau đi kiện. Một con rận khác gặp, hỏi: "Ba anh kiện nhau về việc gì thế?"

Ba con rận đáp: "Chúng tôi kiện nhau, vì tranh nhau một chỗ đất màu mỡ".

Con rận kia nói: "Tôi tưởng các anh chẳng nên tranh lẫn nhau thế làm gì. Các anh chỉ nên lo đến con dao của người đồ tể giết lợn, ngọn lửa của bó rơm thui lợn mà thôi".

Ba con rận nghe ra, biết là dại, thôi không đi kiện nữa, cùng nhau quần tụ, làm ăn với nhau, dù no, dù đói, cũng không bỏ nhaụ Con lợn thành ra mỗi ngày một gầy, người ta không làm thịt, cứ để nuôi, ba con rận nhờ thế mà no đủ mãi.

(Hàn Phi Tử)

Giải Nghĩa:

Đồ tể: Người làm thịt các giống vật để bán.
Quần tụ: Quây quần ăn ở bao bọc lấy nhaụ

Lời Bàn:

Nhân dân một xứ mà cứ tranh giành lẫn nhau cái lợi trước mắt, không nghĩ gì đến cái việc lâu dài cho cả toàn thể, thì trí khôn thật không bằng mấy con rận nói trong truyện này.

Tranh nhau, cãi nhau, đánh nhau, kiện nhau, thì oan oan tương kết, lợi chẳng thấy đâu, chỉ thấy hại, hại cho mình lại hại cho cả đàn, cả lũ nữa. Sao không biết: Sâu đục cây, cây đổ thì sâu cũng chẳng còn; trùng hại vật, vật chết thì trùng cũng hết kiếp.


Đánh Dấu Thuyền Tìm Gương

Có người nước Sở đi đò qua sông. Khi ngồi đò, vô ý đánh rơi thanh gươm xuống sông. Anh ta vội vàng đánh dấu vào mạn thuyền, nói rằng: "Gươm ta rơi ở chỗ nầy đâỵ"

Lúc thuyền đỗ vào bến, anh ta cứ theo chỗ đánh dấu, lặn xuống nước tìm gươm. Thuyền đã đi đến bến, chớ gươm rơi đâu thì vẫn ở đấy, có theo thuyền mà đi đâủ Tìm gươm như thế, chẳng khờ dại lắm ư!

(Lã Thị Xuân Thu)

Giải Nghĩa:

Sở: Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.

Thanh gươm:Tục xưa người ta đi đâu hay đeo theo gươm để thủ thân mà lại giữ lễ nữa.

Lã Thị Xuân Thu: Sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển "Lã Thị Xuân Thu" xong, Bất Vi treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng: "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn vàng."

Lời Bàn:

Thanh gươm rơi xuống sông, thì ở ngay chỗ rơị Nếu muốn tìm thấy gươm, tất phải lặn ngay xuống chỗ rơi mà tìm. Chớ sao lại đánh dấu vào thuyền, đợi đến khi thuyền đỗ vào bến mới lặn xuống tìm? Người tìm gươm này có khác nào như người đánh đàn sắt đem gắn cả ngựa lại, tưởng ngựa không di dịch được là các âm vận tự nhiên điều hoà được đúng! Than ôi! người cố chấp bất thông, chỉ câu nệ biết giờ chặt một cái đã nắm chặt trong tay, chớ không hiểu nghĩa chờ "thời" là gì.


ôm cây đợi thỏ

Một người nước Tống đang cày ruộng. Giữa ruộng có một cây tọ Có con thỏ đồng ở đâu chạy lại, đâm vào gốc cây đập đầu chết.

Người cày ruộng thấy thế, bỏ cày, vội chạy đi bắt thỏ. Đoạn, cứ ngồi khư khư ôm gốc cây mong lại được thỏ nữa. Nhưng đợi mãi chẳng thấy thỏ đâu, lại mất một buổi cày. Thiện hạ thấy vậy, ai cũng chê cười.


(Hàn Phi Tử)

Giải Nghĩa:

Nước Tống: Một nước chư hầu thời Xuân thu, sau bị nước Tề lấy mất , ở vào huyện Thượng Khương ,tỉnh Hà Nam bây giờ .

Đoạn : Nghĩa đen là đứt, việc nầy đứt đến việc khác.

Thiên hạ: Đây là nói những người ngoài.

Hàn Phi Tử: Công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên. Đặt tên là "Hàn Tử". Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lẫn với Hàn Dũ.

Lời Bàn:

Thấy mùi, quen mui làm mãi. ở đời những kẻ ngẫu nhiên gặp may mà ước ao được gặp may luôn như thế nữa, không biết sự may là tình cờ mới có, thì có khác gì người nước Tống ôm cây đợi thỏ nầy. Anh ôm cây đợi thỏ nầy lại còn là người cố chấp bất thông, không hiểu thời thế, không thấu tình cảnh, khư khư đười ươi giữ ống, cũng một phường với loại chơi đàn gắn chặt phím, khắc mạn thuyền để nhớ chỗ gươm rơị


TU THÂN

Thấy người hay thì phải cố mà bắt chước; thấy người dở thì phải tự xét xem có dở như thế không để mà sửa đổi.

Chính mình có điều hay, thì phải cố mà giữ lấy; chính mình có điều dở thì phải cố mà trừ đị

Người chê ta, mà chê phải, tức là thày ta; người khen ta, mà khen phải, tức là bạn ta; cònngười nịnh hót ta lại là người cừu địch hại ta vậy.

Cho nên người quân tử trọng thầy, quý bạn và rất ghét cừu địch, thích điều phải mà không chán, nghe lời can mà biết răn... như thế dù muốn không hay cũng không được.

Kẻ tiểu nhân thì không thế. Cứ bậy mà lại ghét người chê mình; rất dở mà lại thích người khen mình; bụng dạ như hổ lang, ăn ở như cầm thú, mà thấy người ta không phục, lại không bằng lòng; thân với kẻ siểm nịnh, xa cách kẻ can ngăn, thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chệ.. Như thế dù không muốn không dở cũng không được

(Tuân Tử)

Giải Nghĩa:

Quân tử: Người có tài đức hơn người.

Tiểu nhân: Kẻ bất chính, gian ác, tự tư, tự lợi.

Hổ lang: Cọp và chó sói, hai giống tàn bạo.

Cầm thú: Cầm giống có hai chân và hai cánh, thú giống có bốn chân; hai chữ chỉ loài chim và loài muông.

Chính trực: Ngay thẳng.

Trung tín:Hết lòng, thật bụng.

Tuân Tử: Tên là Huống, tên tự là Khanh,người nước Triệu,thấy đời bấy giờ cứ loạn luân mãi và phong hóa suy đồi, làm sách nói về lễ nghĩa, lễ nhạc, cốt ý để chỉnh đức và hành đạo.

Lời Bàn:

Cái đạo tu thân rút lại chỉ có theo điều hay, biết tránh điều dở. Mà muốn tới cái mục đích ấy, thì không những là tự mình phải xét mình lại còn phải xét cái cách người  ở với mình nữa. Đối với người, cần phải biết hai điều: Ai khen chê phải, khuyên răn hay thì phục, thì bắt chước; ai chiều lòng nịnh hót, thì tránh cho xa, coi như quân cừu địch. "Nên ưa người ta khuyên mình hơn người ta khen mình" có như thế thì mới tu thân được.


Cách Cư Xử ở Đời

Thày Nhan Uyên hỏi Đức Khổng Tử : "Hồi này muốn nghèo mà cũng được như giàu, hèn mà cũng được như sang, không phải khoẻ mà có oai, chơi bời với người ta suốt đời không lo sợ gì, muốn như vậy, có nên không?"

Đức Khổng Tử nói: "Người hỏi thế phải lắm. Nghèo mà, muốn cũng như giàu, thế là biết bằng lòng số phận không ham mê gì. Hèn, mà muốn cũng như sang, thế là biết nhún nhường và có lễ độ. Không khoẻ, mà muốn có oai, thế là biết thận trọng, cung kính, không lầm lỗi gì. Chơi bời với mọi người mà muốn suốt đời không lo sợ, thế là biết chọn lời rồi mới nói".

(Khổng Tử Tập Ngữ)

Giải Nghĩa:

Nhan Uyên: Tên lµ Hồi, người nước Lỗ thời Xuân Thu, học trò giỏi nhất của Đức Khổng Tử.

Hồi: Theo lễ xưa, hầu chuyện những bậc trên, như vua, cha, thày học, thường hay xưng tên.

Lễ độ: Phép tắc, mực thước.

Thận trọng: Cẩn thận, trọng hậu.

Cung kính: Quý trọng hiện ra mặt gọi là cung, quý trọng tự trong bụng gọi là kính.

Lời Bàn:

Không cần công danh phú quý thế là biết giữ thiên tước hơn nhân tước, không để ai khinh nhờn được, thế là biết trọng phẩm giá mình, không muốn đeo cái lo vào mình, thế là biết giữ thân không phiền lụy đến aị ở đời mà giữ trọn vẹn được mấy điều như thế, tưởng thật là một cách vui thú rất cao thượng vậy.


Khổ Thân Làm Việc Nghĩa

Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề, qua nhà người bạn cũ, vào chơị Người bạn nói chuyện với Mặc Tử rằng: "Bây giờ thiên hạ ai còn biết đến việc "nghĩa", một mình ông tự khổ thân để làm việc nghĩa, thì có thấm vào đâu! Chẳng thà thôi đi có hơn không?"

Mặc Tử nói: "Bây giờ có người ở đây, 

nhà mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn không, thì đứa cày chẳng nên càng chăm cày hơn lên ử Tại sao thế? Tại đứa ăn nhiều, đứa đi cày ít. Bây giờ thiên hạ chẳng ai chịu làm việc nghĩa, thì ông phải biết khuyên tôi càng làm lắm mới phải, có đâu lại ngăn tôi như thế".

(Mặc Tử)

Gĩai Nghĩa:

Lỗ: Một nước chư hầu nhở thời Xuân Thu Chiến quốc , ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ. 

Tề: Một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến quốc cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.

Thiên Hạ: Đất dưới gầm trời, người Tàu xưa nay cho nước Tàu và mấy nước xung quanh là thiên hạ.

Nghĩa: Việc phải, việc hay mà người ta nên làm.

Tư khổ thân: Tự mình làm cho mình khó nhọc vất vả.

Mặc Tử :Tên sách của Mặc Dịch soạn, chủ nghĩa là "kiêm ái" yêu người như yêu mình

Lời Bàn:

Trong khi nhân tâm thế đạo suy đồi, mình là người còn đứng vững được, thì sao lại chịu suy đồi với thiên hạ cho cùng trôi một loại. Vì nếu ai cũng như thế cả, thì còn đâu là người cảnh tỉnh được kẻ u mê để duy trì lấy nhân tâm thế đạo nữa? Cho nên những người thức thời, có chí, dù ở vào cái đời biến loạn đến đâu, cũng không chịu đắm đuối vào cái bất nghĩa, khác nào như: Cây tòng, cây bách mùa đông sương tuyết mà vẫn xanh, như con gà trống mưa gió tối tăm mà vẫn gáy. Những bậc ấy chẳng những thế mà thôi, lại còn đem bao nhiêu tinh lực tâm trí ra, cố gắng giữ lấy phong hóa mà dìu dắt, mà đưa đường cho những kẻ u mê đắm đuối. Như Mặc Tử đây, cho đời là suy biến, coi sự làm việc "nghĩa", sự cổ động việc nghĩa như cái chức vụ của mình phải làm, thực là người có công với loài người vậy.

Lấy Của Ban Ngày

Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: "Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được." Lấy rồi đem đị Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói: "Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại".
Người coi chợ thấy càn dỡ, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng: "Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với kẻ ấy thì lại chẳng hơn ử Các ngươi cười ta là các người chưa nghĩ kỹ!"

(Long Môn Tử)

Giải Nghĩa:

Hiếu lợi: Ham tiền của quên cả phải trái.

Lửa tham: Lòng tham muốn bốc lên làm ngốt người.

Mờ cả hai con mắt: Chỉ để cả vào của muốn lấy, ngoài ra không thấy gì nữa  

Thế gian: Cõi đời người ta ở 

Thiên phương bách kế: Mưu này , chước khác xoay đủ trăm nghìn cách .

Ngấm ngầm: ý nói làm hại một cách bưng bịt không để ai biết.

Ban ngày: Lúc sáng sủa dễ trông thấy.

Long Môn Tử : Tức là Tư Mã Thiên làm quan Thái sư nhà Hán, là một sử ký có danh.

Lời Bàn

Đã là kẻ thấy của tối mắt, tham vàng bỏ nghĩa, thì dù ít, dù nhiều cũng là đáng khinh cả, song đem những kẻ mặt to tai lớn vì ham mê phú quý mà lừa thày, phản bạn, hai ngầm đồng bào so với những quân ăn cắp đường, cắp chợ giữa ban ngày để nuôi miệng thì tội nặng hơn đến biết bao nhiêụ Thế mà trách đời chỉ biết chê cười những quân trộm cướp vặt chớ không biết trừng trị những kẻ đại gian đại ác.


Lợi Mê Lòng người

Nước Tống có kẻ mất cái áo thâm. Anh ta ra đường tìm. Thấy người đàn bà mặc áo thâm, níu lại đòi rằng: "Tôi vừa mất cái áo thâm, chị phải đền trả tôi cái này". Rồi cứ giữ chặt cái áo không buông ra nữa.

Người đàn bà cãi: "Ông mất cái áo thâm, tôi biết đấy là đâủ áo tôi mặc đây là áo của tôi, chính tay tôi may ra".

Anh kia nói: "Chị cứ phải đến trả áo cho tôi ,  Cái áo thâm tôi mất dày, cái áo thâm chị mặc mỏng. Lấy áo thâm mỏng của chị đền cái áo thâm dày cho tôi, còn phải nói lôi thôi gì nữa!"

(Tử Hoa Tử)

Giải Nghĩa:

Nước Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thượng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.

Thâm: Sắc đen.

Níu: Giằng dai giữ lại không cho đị

Lời Bàn

Mất áo trong nhà mà ra đường tìm, đã là chuyện bật cười. Mất áo đàn ông mà đòi áo đàn bà lại là chuyện bật cười. Mất áo thâm dày bắt đền áo thâm mỏng mà cho là phải, lại là chuyện bật cười nữa. Ôi cái lợi nó làm cho lòng người mê muội, chỉ biết có mình không biết có ai, chỉ vụ lợi cho mình mà quên cả phải trái. Kẻ nào đã vụ lợi như thế, thì cái gì mà chẳng dám làm, cái gì mà chả dám nói! Than ôi! Cái đời kim tiền bây giờ biết bao nhiêu phường đòi áo như người nói trong truyện này.


Kúc Đi Trắng ,Lúc Về Đen 

Một hôm trời nắng, Dương Bố đi chơị Khi ở nhà ra, thì mặc áo trắng, đi được nửa đu8ờng, gặp trời mưa, quần áo ướt hết, mới vào ẩn mưa ở nhà bà con. Người ấy thấy Dương Bố ướt cả cho mượn cái áo thâm.

Một lúc trời tạnh, Dương Bố mặc áo thâm về nhà. Con chó trông thấy, vừa cắn vừa xua đuổi. Dương Bố giận toan cầm gậy đánh.

Anh là Dương Chu chạy ra bảo: "Đừng đánh nó làm gì! Nó đuổi như thế cũng phải. Giả sử con chó trắng nhà ta, lúc đi thì trắng, lúc về thì đen, phỏng em có không lấy làm lạ mà không ngờ được không?"

(Liệt Tử)

Giải Nghĩa:

áo thâm:áo sắc đen.

ẩn mưa: Núp một chỗ để tránh mưa

Giả sử: Ví bằng.

Dương Chu: Người đời chiến quốc xướng lên các học thuyết vị kỷ.

Liệt tử:Sách của Liệt ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt-ngữ-khấu soạn ra,có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là "Sung hư chân kinh", hay "Sung hư chí đức chân kinh".

Lời Bàn:

Lúc đi mặc áo trắng, lúc về mặc áo thâm, chính mình không biết mình thay đổi, con chó thấy khác thì xua đuổi. Mình đánh nó chẳng hóa ra lầm lắm ru! Lỗi tại mình thay đổi không tại con chó cắn xằng. Vậy nên ở đời khi mình làm điều gì khác thường, mà người ta không rõ, thì tất nhiên người ta bàn trái bàn phải. Nếu mình không tự xét mình thay đổi hay hay dở, chỉ biết trách người nghị luận nọ kia, thì chẳng khác nào như Dương Bố đánh chó trong truyện nầy.


Không Quên Được Cái Cũ  

Đức Khổng Tử ra chơi ngoài đồng, thấy một người đàn bà đứng khóc nỉ non ở chỗ bờ đầm, Đức Khổng Tử lấy làm lạ, bảo học trò hỏi vì cớ gì mà khóc.

Người đàn bà nói: "Độ trước tôi cắt cỏ thi, tôi đánh mất cái trâm cài đầu bằng cỏ thi, cho nên tôi khóc."

Đức Khổng Tử hỏi: "Đi cắt cỏ thi, mà mất cái trâm làm bằng cỏ thi thì việc gì phải khóc?"

Người đàn bà nói: "Không phải vì tôi đánh mất cái trâm cỏ thi mà tôi khóc; tôi sở dĩ khóc là tôithương tiếc một vật cũ, dùng đã lâu, mà ngày nay không sao thấy được nữa."

(Khổng Tử Tập Ngữ)

GIảI NGHĩA:

Đức: Tiếng gọi có ýtôn trọng, hoặc còn có nghĩa chỉ bật đức hạnh.

Cỏ thi: một thứ cỏ giống như cỏ le, thân tròn, ruột vuông, lá nhỏ mà dài, cạnh sắc, hoa tựa như hoa cúc, trắng hay đỏ nhớt. Người ta hay dùng cuống cỏ để bói dịch gọi là bói cỏ thi . ở nước ta,, núi Quyền Sơn (Hà Nam) cũng có cỏ thi .

Sở dĩ: tại sao,vì cớ gì.

Khổng Tử Tập Ngữ: Sách chép những lời nói, những truyện về Đức Khổng Tử. Khổng Tử  tên là Khưu, tên tự Trọng Ni, người nước Lõ , thời Xuân Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cổ, đi nhiều nước chư hầu không được dụng, trở về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy học trò được ba nghìn người, có 72 người giỏi. Nước Tàu xưnglàm Tổ Đạo Nhọ

 

Lời Bàn:

Cái gì đã là của mình, mình có bụng yêu, mà lỡ khi đánh mất, thì về sau dù có được cái khác giống như thế, hay hơn thế mình cũng không thể nào yêu cho bằng. Thường, lại chỉ vì thấy cái mới mà hồi nhớ lại cái cũ, sinh ra chạnh lòng, nên câu ta thán, có khi ngậm ngùi thương khóc nỉ non. Tại sao vậy? Tại đối với mình, cái của mất không chỉ có giá của mà thôi, lại hình như còn có một phần tâm hồn mình hay tâm hồn người để lại cho mình ngụ ở trong nữa. Sự cảm động đầu tiên bao giờ cũng là sự cảm động hay nhất, bền nhất. Ôi! Cáo chết ba năm quay đầu về núi, con người ta, dù cho lông bông phiêu bạt đến thế nào, còn có chút tâm tình cũng không quên được gốc tích xứ sở mình. "Hồ mã tê bắc phong, Việt Điểu sào chi nam". Con ngựa rợ Hồ (phía bắc nước Tàu) thấy gió bắc còn cất tiếng kêu, con chim đất Việt (phía Nam nước Tàu) chọn cành nam mới chịu làm tổ, huống chi là người mà lại quên được nguồn gốc ử


Hai Phải

Sông Vĩ nước lên tọ Một nhà giàu không may có người chết đuối. Có kẻ vớt được xác.

Người nhà giàu xin chuộc, kẻ ấy đòi nhiều tiền. Người nhà giàu đem câu chuyện thưa với Đặng Tích. Đặng Tích bảo: "Cứ để yên. Nó còn bán cái xác cho ai được mà sợ?"

Kẻ vớt được xác, thấy nhà kia không hỏi nữa lấy làm lo,cũng đem câu chuyện thưa với Đặng Tích. ĐặngTích bảo:"Cứ để yên. Nó còn mua cái xác ấy của ai được mà sợ?"

(Lã Thị Xuân Thu)

Giải Nghĩa:

Vĩ: Tên sông, chảy ở địa phận Hà Nam.

Đặng Tích: Quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu là một nhà luật pháp giỏi. 

Lời Bàn:

Cứ như người  giảng giải việc nói trong bài này cho phải đạo lý, thì một bên, nên khuyên người nhà giàu liệu trả kẻ vớt được xác thêm ít nhiều tiền, mà lấy ngay cái xác về; còn một bên, nên dụ kẻ vớt được xác chớ coi sự chẳng may của người ta làm một món bổng, mà bắt bí người tạ Giữ cái xác, không cho chuộc, chẳng những không được tiền, lại còn phải tội nữa. Nhưng khốn thay! lý sự là cái nguồn bắt phải, bắt trái đều được. Cho nên Đặng Tích mới có chốn xúi bày được cả đôi bên kiện tụng lẫn nhau mà ngấm ngầm lấy lợi cho mình. Thế tức là cái chủ nghĩa: "Hai phải" ngụy biện rất hại cho dân - gian ngu dại mà lại hay kiện tụng. Biện bác mà không đáng lý tức là giả dối, khôn ngoan mà không đáng lý tức là gian trá, những kẻ ấy phải trừng phạt thì mới yên dân, lợi nược được. Người trị dân tưởng phải thấu cái tình, để xét cái lý, mới là người trị dân sáng suốt vậy.ủ

Trang Kết Tiếp